Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đức tin (Niềm tin) và Thượng đế”
Dòng 88: | Dòng 88: | ||
|} | |} | ||
== | ==Nguồn== | ||
* [http://blogs.myspace.com/index.cfm?fuseaction=blog.ListAll&friendId=386805075 English half] | * [http://blogs.myspace.com/index.cfm?fuseaction=blog.ListAll&friendId=386805075 English half] | ||
* [http://www.figu.org/ch/book/export/html/2209 German half] | * [http://www.figu.org/ch/book/export/html/2209 German half] |
Phiên bản lúc 03:46, ngày 17 tháng 6 năm 2025
Đây là bản dịch không chính thức nhưng đã được ủy quyền của một ấn phẩm FIGU.
Trước khi đọc tiếp, xin hãy đọc điều kiện tiên quyết cần thiết để hiểu tài liệu này.
Giới thiệu
- Tác giả: Billy Eduard Meier
- Nguồn gốc: FIGU-Bulletin Nr. 68
- Viết ngày: 24. Januar 2009
- Xuất bản: Tháng 9 năm 2009
- Dịch giả: Benjamin
- Ngày dịch gốc: Thứ Sáu, 18 tháng 12 năm 2009
- Hiệu đính và cải tiến: Sanjin, Mariann Mondria Uehlinger (một câu)
Tóm tắt
Chú thích của dịch giả: Bài viết sau đây của Billy Meier ban đầu được xuất bản bằng tiếng Đức, trong FIGU Bulletin# 68, với tiêu đề “Glaube und Gott.” Một độc giả đã yêu cầu tôi dịch bài viết này sang tiếng Anh, và tôi đã thực hiện bằng phương pháp so sánh/đối chiếu phần mềm dịch thuật như được trình bày trên trang chính:
www.myspace.com/billymeiercontactreports
Tôi đã dành nhiều thời gian và cẩn trọng trong việc chuẩn bị bản dịch này, cố gắng làm cho nó tương ứng với bài viết gốc của Meier tốt nhất có thể. Bài viết này chứa thông tin có thể gây khó chịu cho một số độc giả, vì vậy, tôi muốn làm rõ rằng quan điểm được trình bày trong bài viết này là của tác giả gốc, Billy Meier, chứ không phải của tôi, người dịch. Tôi đã cố gắng truyền đạt quan điểm của Meier được thể hiện ban đầu bằng tiếng Đức một cách chính xác nhất có thể bằng tiếng Anh, nhưng độc giả nên lưu ý rằng bản dịch này là không chính thức và không được ủy quyền, do đó có thể chứa lỗi. Bản gốc tiếng Đức có thể đọc tại đây:
http://www.figu.org/ch/book/export/html/2209
Đức tin (Niềm tin) và Thượng đế
Tiếng Việt | German |
Đức tin (Niềm tin) và Thượng đế | Glaube und Gott |
Làm thế nào mà đức tin tôn giáo xuất hiện; tại sao con người thực sự tin vào một Thượng đế, vào nhiều Thượng đế, vào thần tượng, và vào các giáo lý sai lầm của tôn giáo và các giáo phái, và tại sao niềm tin ảo tưởng này lại không tan biến trong thời đại hiện nay khi các kiến thức khoa học có giá trị rộng lớn? | Wie kam der religiöse Glauben zustande; warum glaubt eigentlich der Mensch an einen Gott, an mehrere Götter, an Götzen; an die Irrlehren von Religionen und Sekten, und warum löst sich dieser Wahnglaube in der heutigen Zeit der umfänglich wertvollen Erkenntnisse der Wissenschaft nicht auf? |
Hiện nay (2009), có khoảng bảy tỷ rưỡi người tự nhận là tín đồ của một trong sáu tôn giáo lớn trên thế giới hoặc một giáo phái phát sinh từ chúng. Đối với các tôn giáo và giáo phái, Thượng đế có nhiều gương mặt. Đối với người Kitô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, ngài là một Thượng đế Tạo hóa nhân cách hóa và phổ quát, người đã tạo ra thế giới, bầu trời và vũ trụ từ hỗn loạn. Con người được xem là đỉnh cao do Thượng đế tạo ra, và vào cuối thời gian, người ta hứa hẹn một sự tồn tại thiên đường giữa con người và Thượng đế. Tuy nhiên, các tôn giáo châu Á lại không biết đến một gương mặt của Thượng đế, tức là không có nhân vật, mà là một nguyên lý thần thánh, một linh hồn vũ trụ toàn năng, toàn tri và toàn hiểu, thấm nhuần toàn bộ vũ trụ, tức là một hình thức có thể so sánh phần nào với sự tồn tại của Creation. Nhưng điều này không có nghĩa là thông qua sự so sánh gần đúng này, các giáo lý tôn giáo của các tôn giáo châu Á có thể hòa hợp với Spirit Teaching bởi vì những tôn giáo này cũng còn xa rời giáo lý về sự thật, giáo lý về tinh thần, và giáo lý về sự sống do Creation ban cho. | Zur Zeit (2009) sind es rund siebeneinhalb Milliarden Menschen, die sich zu einer der sechs Weltreligionen oder zu einer aus diesen hervorgegangenen Sekte bekennen. In bezug auf Religionen und Sekten hat Gott viele Gesichter. Für Christen, Juden und Muslime ist er ein personaler und universeller Schöpfergott, der die Welt, den Himmel und das Universum aus einem Chaos erschaffen hat. Der Mensch gilt dabei als gotterschaffener Höhepunkt, wobei ihm am Ende der Zeit ein paradiesisches Miteinander von Mensch und Gott verheissen wird. Die Religionen Asiens hingegen kennen kein Antlitz eines Gottes resp. keine Person, sondern eher ein göttliches Prinzip, eine Weltseele, die allhörend, allsehend und allverstehend sein und das ganze Universum durchwirken soll; also eine Form, die in gewisser Weise mit der Existenz der Schöpfung verglichen werden kann. Das aber bedeutet nicht, dass durch diesen annähernden Vergleich die religiösen Lehren der asiatischen Religionen mit der Geisteslehre in Einklang zu bringen wären, weil nämlich auch diese Religionen fern der schöpfungsgegebenen Lehre der Wahrheit, Lehre des Geistes, Lehre des Lebens sind. |
Người Kitô hữu cầu nguyện với Chúa Jesus, Chúa Thánh Thần và Chúa Cha; người Hồi giáo cầu nguyện với Allah; những người khác tuân theo các điều răn của Torah hoặc mong muốn chấm dứt vòng luân hồi của mình. Nhiều người hành hương đến Jerusalem và Bethlehem, những người khác đến Kaaba ở Mecca hoặc núi Kailash ở Tây Tạng, v.v. Và tất cả những ai đã trở thành nạn nhân của một niềm tin đều khao khát sự bình yên trên thiên đường, bất kể điều đó đến bằng cách nào – dù là bằng “thánh chiến”, khủng bố, tòa án đẫm máu, tra tấn, giết người, trả thù, báo oán hay hận thù. Điều này không hề thay đổi, ngay cả khi khoa học tiến bộ rực rỡ và nhận thức rằng mọi thứ trong toàn bộ sự tồn tại đều có thể giải thích bằng vật lý, kể cả những điều bị gọi sai là “siêu nhiên” và “siêu hình”. Tuy nhiên, con người vẫn là kẻ tin mù quáng vào các giáo lý tôn giáo sai lầm, vào một Thượng đế, vào nhiều thần linh hoặc thần tượng, v.v., vì anh ta đơn giản là muốn có một quyền lực cao hơn bản thân để gánh vác mọi trách nhiệm thay mình, và điều này không gì dễ dàng hơn là bám víu vào một niềm tin ảo tưởng về một thần linh quyết định mọi thứ và chịu trách nhiệm cho mọi việc, v.v. Trong niềm tin ảo tưởng này, tất cả những gì không thể giải thích hợp lý do thiếu hiểu biết đều được cho là siêu hình và siêu nhiên, trong khi những người có thể giải thích những điều này lại bị coi là kẻ nói dối, lừa đảo và lang băm. Vì vậy, con người trên Trái Đất ngày nay vẫn tìm kiếm ý nghĩa và định hướng từ một trật tự thần thánh – bởi vì anh ta không chịu để cho sự thật sáng tạo thực sự dạy dỗ mình, mà vẫn muốn tin mù quáng, ngay cả trong thời đại khai sáng lớn lao – giống như thời Abraham. | Die Christen beten zu Jesus, dem Heiligen Geist und zu Gottvater, die Muslime zu Allah, andere folgen den Geboten der Thora oder streben nach einem Ende ihrer Wiedergeburten. Viele pilgern nach Jerusalem und Bethlehem, andere zur Kaaba in Mekka oder zum Berg Kailasch in Tibet usw. Und alle, die einem Glauben verfallen sind, ersehnen sich himmlischen Frieden, und zwar ganz gleich, wie dieser auch zustande kommen möge – auch wenn es durch einen ‹heiligen Krieg› sei, durch Terror, blutiges Strafgericht, Folter, Mord, Rache, Vergeltung und Hass. Daran hat auch der Siegeszug der Wissenschaft und die Erkenntnis nichts geändert, dass alles jeder Existenz physikalisch erklärbar ist, und zwar auch alle jene Dinge, die fälschlich als ‹überirdisch› und ‹übersinnlich› bezeichnet werden. Trotzdem ist der Mensch wahngläubig in religiöse Irrlehren, an einen Gott, an mehrer Götter oder an Götzen usw., denn er will einfach eine höhere Macht über sich haben, die ihm alle Verantwortung abnimmt, was nicht leichter geht als dadurch, dass einem Wahnglauben an eine allesbestimmende und für alles verantwortliche Gottheit usw. angehangen wird. In diesem Wahnglauben wird auch alles als übersinnlich und überirdisch gewähnt, was infolge Unwissen nicht rational erklärt werden kann, während jene, welche diese Dinge erklären können, als Lügner, Betrüger und Scharlatane abgetan werden. So sucht der Mensch der Erde noch heute – weil er sich nicht von der effectiven schöpferischen Wahrheit belehren lassen, sondern wahngläubig sein will –, in einer Zeit grosser Aufgeklärtheit, noch immer den Sinn und die Orientierung in einer göttlichen Ordnung – wie zu Abrahams Zeiten. |
Trong toàn vũ trụ, không có loài động vật hay sinh vật nào (không phải con người) trở thành nạn nhân của một đức tin tôn giáo hay bất kỳ niềm tin nào khác, và do đó, cũng không có loài nào cầu nguyện với một Thượng đế Tạo hóa, các thần linh, các vị thánh, các thiên thần hay một người con được cho là của Thượng đế Tạo hóa. Thật vậy, chỉ có con người mới biết đến cầu nguyện và đức tin, vì anh ta bị dày vò bởi nỗi sợ hãi có ý thức và vô thức, bởi hy vọng và ham muốn. Động vật và các sinh vật chỉ trải qua nỗi kinh hoàng, hoảng loạn, đau đớn và căng thẳng cũng như các phản ứng thể chất và bản năng đối với mối đe dọa. Động vật và các sinh vật nói chung không biết đến các phạm trù của khả năng, sự quyết định, cân nhắc và logic, vì mọi thứ trong chúng đều được xác định bởi bản năng. Chỉ riêng con người mới có trí tuệ và lý trí, một sự hợp lý, nhờ đó anh ta ý thức về bản thân và tất cả các suy nghĩ, cảm xúc cũng như hành động và việc làm của mình, và có thể cân nhắc, quyết định, vận dụng và thực hiện một cách hợp lý. Nhưng những gì con người không thể hiểu thấu và không thể hiểu được sẽ khơi dậy nỗi lo lắng hoặc sợ hãi trong anh ta. | Im ganzen Universum gibt es kein Tier oder ein Getier, das einem religiösen oder sonstigen Glauben verfallen ist, und also gibt es auch keines, das an einen Gottschöpfer, an Götter, an Heilige, an Engel, an einen angeblichen Gottschöpfersohn betet. Wahrlich, einzig und allein der Mensch kennt Beten und Glauben, weil er von bewusster sowie unbewusster Angst und Furcht, von Hoffnungen und von Begierden gepeinigt wird. Die Tiere und das Getier hingegen erleben nur Schreck, Panik, Schmerz und Stress sowie körperliche und instinktmässige Reaktionen auf Bedrohung. Tiere und das Getier allgemein kennen nicht die Kategorien des Möglichen, des Bestimmenden, Abwägenden und des Logischen, denn alles in ihnen wird durch ihren Instinkt bestimmt. Allein der Mensch hat Verstand und Vernunft, eine Ratio, durch die er sich seiner Selbst bewusst ist und all seine Gedanken und Gefühle sowie Handlungen und Taten bewusst abwägen, bestimmen und in logischer Folge zur Geltung bringen und durchführen kann. Was der Mensch aber nicht ergründen und nicht verstehen kann, erregt in ihm Angst oder Furcht. |
Từ thời cổ đại, con người đã tự hỏi: ai kết thúc ngày và khiến Mặt Trời lặn, và gió, mưa, tuyết, mưa đá, sấm sét, tất cả các cơn bão, hạn hán, mất mùa, tai nạn, bệnh tật và dịch bệnh đến từ đâu? Từ xa xưa, anh ta đã cảm nhận được sức mạnh của các yếu tố tự nhiên và nhìn chằm chằm vào bóng tối mà không hiểu, nơi anh ta hy vọng sẽ tìm được câu trả lời cho những gì mình tìm kiếm. Và thực tế là, nếu nhìn đủ lâu vào bóng tối, thì nhiều thứ sẽ xuất hiện – những ảo ảnh được mong đợi, những thị kiến và đủ loại những điều khác. | Seit Urzeiten fragt sich der Mensch, wer den Tag beendet und die Sonne untergehen lässt, woher Wind und Regen, Schnee, Hagel, Blitz und Donner sowie all die Unwetter, Dürren, Missernten, Unfälle, Krankheiten und Seuchen kommen. Seit jeher spürt er die Macht der Elemente und starrt verständnislos ins Dunkel, in dem er hofft, das als Antwort zu finden, wonach er fragt. Und Tatsache ist dabei, wenn lange genug ins Dunkel gestarrt wird, dann zeigen sich darin vielerlei Dinge – erhoffte Trugbilder, Visionen und allerlei sonstige Dinge. |
Qua đó, tất cả những yếu tố tác động đến con người mà anh ta cố gắng tìm hiểu dường như đạt được các lời giải thích, xuất hiện dưới dạng các hình tượng, nhân vật, tên gọi, gương mặt và đặc điểm, v.v. Theo cách này, đã xuất hiện Re, thần Mặt Trời của người Ai Cập, Thoth, thần Mặt Trăng, Agni, thần Lửa của người Ấn Độ giáo, và Indra, thần Mưa, v.v. Ngoài ra, còn có những người tự xưng là thần thánh và mê hoặc tín đồ của mình bằng các giáo lý điên rồ, dẫn dắt họ lạc lối. Dần dần, nhân loại đã lấp đầy mọi thứ bằng các vị thần và thần tượng: bầu trời và mặt đất, nước và đất đai, các suối, khe, sông ngòi, hồ và biển, cũng như rừng, rậm, núi và sa mạc, không khí, gió, sấm chớp và mọi thứ có thể tưởng tượng được. Thông qua các thần linh, thần tượng và các sinh thể được cho là linh thiêng, v.v., con người từ xưa đến nay đã cố gắng giải thích mọi thứ tồn tại, mọi sự kiện, mọi thứ được sinh ra, phát triển và biến mất. Vì vậy, Thượng đế, các vị thần và thần tượng chỉ là phương tiện để xoa dịu tâm trí bị dày vò bởi nỗi sợ hãi, và trong sự phi lý hoàn toàn, tìm kiếm chỗ dựa và trách nhiệm trong những giáo lý tôn giáo sai lầm còn phi lý và vô lý hơn nữa. | Dadurch gelangen all die den Menschen bewegenden Elemente, die er zu ergründen sucht, scheinbar zu Erklärungen, die sich ihm in Form von Figuren, Gestalten, Namen, Gesichtern und Eigenschaften usw. aufdrängen. Auf diese Weise ist auch Re, der Sonnengott der Ägypter, Thot, der Gott des Mondes, der Feuergott Agni der Hindus und Indra, der Gott des Regens usw. entstanden. Es sind aber auch Menschen erstanden, die sich als Gottheiten ausgegeben haben und ihre Gläubigen mit irren Lehren bezirzten und in die Irre führten. So kam es nach und nach, dass die Menschen der Erde alles mit Göttern und Götzen bevölkerten, den Himmel und die Erde, das Wasser und Erdreich, die Quellen, Bäche, Flüsse, Ströme, Seen und Meere, wie aber auch die Wälder, Dschungel, die Berge und Wüsten, die Luft, die Winde, den Blitz und den Donner und alles erdenklich Mögliche. Durch diese Gottheiten, Götzen und durch angebliche geistige Wesenheiten usw. versuchte und versucht der Mensch seit alters her all das zu erklären, was existiert, was geschieht, was geboren wird, sich wandelt und vergeht. So ist Gott und sind die Götter und Götzen das Mittel zum Zweck, den angst- und furchtgepeinigten Verstand zu besänftigen und in völliger Unvernunft in noch unvernünftigeren und unlogischeren religiösen Irrlehren Halt und Verantwortung zu finden. |
Các vị thần đã được con người trên Trái Đất tưởng tượng và sáng tạo ra từ rất sớm, thậm chí từ trước khi người thời kỳ đồ đá thực hiện các nghi lễ cho các thần và thần tượng của mình và lập nên các nghi lễ tôn giáo, điều mà đến nay vẫn còn ít được biết đến vì bằng chứng còn hạn chế. Tuy nhiên, nhiều điều về thời kỳ sau đã được lưu truyền lại, như trong Sử thi Gilgamesh của người Sumer. Trong thần thoại cổ xưa này, có niên đại gần 4000 năm, có nhắc đến thần Enlil, người đã gọi gió và trận lụt đến để biển cả tàn bạo cuốn trôi mọi thứ, như được mô tả trong nhiều truyền thuyết về Đại hồng thủy. Trong thần thoại có ghi: “Và Trái Đất gầm lên như một con bò đực. Khi đó, Enlil, Chúa tể của Gió, đã gửi trận lụt để nhấn chìm tiếng la hét và ồn ào.” Việc thần thoại này được Kitô giáo tiếp nhận không có gì đáng ngạc nhiên đối với những ai biết rằng tôn giáo này đã lấy rất nhiều từ các thần thoại của các dân tộc khác, như cả câu chuyện về Moses bị thả trôi trên sông Nile. | Gottheiten wurden vom Menschen der Erde schon sehr früh erphantasiert und erdacht, und zwar schon lange, ehe die Steinzeitmenschen ihre Rituale für ihre Götter und Götzen durchführten und Kulte erschufen, worüber leider noch wenig bekannt ist, weil diesbezüglich wenig Beweise dafür vorliegen. Dafür jedoch sind viele Dinge späterer Zeiten überliefert, wie z.B. im sumerischen Epos von Gilgamesh. In diesem frühen Mythos, der nahezu auf ein Alter von 4000 Jahren zurückführt, ist die Rede vom Gott Enlil, der die Winde und die Flut aufrief, auf dass das grausame Meer alles verschlang, wie dies in vielen Schilderungen in bezug auf die Sintflut beschrieben wird. So heisst es im Mythos: «Und die Erde brüllte auf wie ein Stier. Da sandte Enlil, der Herr der Winde, die Flut, um zu ertränken das Geschrei und den Lärm». Dass dieser Mythos vom Christentum übernommen wurde, dürfte nicht verwunderlich sein für jene, die wissen, dass diese Religion viel aus den Mythen anderer Völker entwendet hat, wie z.B. auch die Geschichte des Mose, der im Nil ausgesetzt wurde. |
Ngay cả người Inuit, tức người Eskimo (những người ăn thịt sống), cũng không nằm ngoài niềm tin vào các vị thần; do đó, các pháp sư của họ cầu xin nữ thần Arnaquagssaaq để có thể săn hải cẩu và cá voi khi họ bị đói, nếu họ chưa hoàn toàn chuyển sang Kitô giáo. Nữ thần này được cho là sống trong một cung điện trắng dưới đáy biển. | Auch die Inuit resp. Eskimos (Rohfleischesser) sind vom Glauben an Gottheiten nicht ausgeschlossen, folglich ihre Zauberpriester zur Göttin Arnaquagssaaq flehen, um Robben und Wale erlegen zu können, wenn sie Hunger leiden und noch nicht rettungslos dem Christentum verfallen sind. Die Göttin soll in einem weissen Palast auf dem Grunde des Meeres wohnen. |
Theo niềm tin ảo tưởng cổ xưa của con người, một Thượng đế độc thần cai quản sự sống và cái chết, cũng như nhiều vị thần và thần tượng khác cũng được cho là có quyền năng đó; do đó, họ cần được xoa dịu. Vì vậy, người ta dâng cúng cho Thượng đế, các vị thần và thần tượng những vật như hoa, trái cây, rau củ, động vật, tiền bạc, các vật phẩm tôn giáo và thậm chí cả con người. Ngay từ thời xa xưa, mọi thứ đã gắn liền với các nghi lễ ma thuật, từ đó các tôn giáo tự nhiên ra đời. Tuy nhiên, điều này không dừng lại ở đó, vì dần dần các hình thức tôn giáo mới được hình thành từ các tiên tri giả, thầy tu và những kẻ cuồng tín, v.v., với những giáo lý sai lầm to lớn dẫn đến các cộng đồng tín ngưỡng hùng mạnh và cuối cùng là những tôn giáo quyền lực. Tất cả những điều này chắc chắn có những điểm chung không thể phủ nhận. Đức tin là phản ứng đối lập với nỗi sợ, thông qua đó cái xấu được chuyển hóa thành cái tốt, không chỉ trong tự nhiên mà còn ở con người, người mà nhờ các luật lệ tôn giáo công khai và các giới luật tôn giáo ẩn giấu, cùng với quyền lực ngầm, sẽ được chuyển hóa thành con người thực sự. Các thế lực và yếu tố đủ loại sẽ trở nên thân thiện; hạn hán sẽ biến thành mưa, bệnh tật và dịch bệnh sẽ biến thành sức khỏe. Nạn đói sẽ chấm dứt nhờ mùa màng bội thu và may mắn trong săn bắn, trong khi lo lắng và sợ hãi sẽ biến thành dũng cảm và tự tin. Đặc biệt, lo lắng và sợ hãi là những trụ cột chính của mọi tôn giáo và giáo phái, từ xa xưa cho đến tận ngày nay. | Gemäss dem altherkömmlichen Wahnglauben der Menschen gebietet ein monotheistischer Gott über Leben und Tod, wie das aber auch vielzählige Götter und Götzen tun sollen, folglich sie gnädig gestimmt werden sollen. Folgedem werden einem Gott, den Göttern und Götzen Opfer gebracht, wie Blumen, Früchte und Gemüse, Tiere und Getier, Geld, allerlei religiöse Gegenstände und gar Menschen. Das Ganze war schon seit frühen Zeiten mit magischen Ritualen verbunden, aus denen Naturreligionen entstanden. Bei diesen blieb es jedoch nicht, denn mit der Zeit bildeten sich neue Religionsformen, die durch falsche Propheten, Priester und Fanatiker usw. entstanden und bei denen gewaltige Irrlehren zu machtvollen Glaubensgemeinschaften und letztlich zu mächtigen Religionen führten. All diese haben unzweifelhaft Gemeinsamkeiten, die nicht zu leugnen sind. Glauben ist ein Gegenentwurf zur Angst, durch den Böses zum Guten gewandelt werden soll, und zwar nicht nur in der Natur, sondern auch beim Menschen, der durch offene religiöse Glaubensgesetze und gesetzversteckte Glaubensgebote und dadurch durch versteckte Gewalt zum wahren Menschen gewandelt werden soll. Gewalten und Elemente aller Art sollen freundlich gestimmt werden, so sich z.B. Dürre in Regen und Krankheit und Seuchen in Gesundheit verwandeln sollen. Hunger soll durch gute Ernten und Jagdglück ein Ende finden, während Angst und Furcht in Mut und Zuversicht verwandelt werden sollen. Besonders Angst und Furcht sind die tragenden Säulen aller Religionen und Sekten, und zwar schon seit alters her und hineingetragen bis in die heutige Zeit. |
Lo lắng và sợ hãi là những “trái quả” cơ bản của mọi tôn giáo và giáo phái, được ném cho tín đồ như thức ăn và họ ăn lấy, bởi vì họ lo lắng hoặc sợ hãi mọi điều bất công có thể ập đến với họ dưới dạng hình phạt trực tiếp từ Thượng đế. | Angst und Furcht sind die grundlegenden Früchte aller Religionen und Sekten, die den Gläubigen als Nahrung vorgeworfen und von diesen gegessen werden, weil sie sich vor all dem ängstigen oder fürchten, was an Unbill irgendwelcher Art und als direkte Strafe Gottes auf sie einbrechen könnte. |
Đối lập với điều này là lòng biết ơn của tín đồ, cụ thể là đối với việc cái ác không xảy đến với họ, vì theo đức tin của họ, họ đã hạ mình như những con chó trong lời cầu nguyện gửi đến Thượng đế và trong sự tôn thờ quyền năng thần thánh của ngài. Họ làm vậy thay vì tin vào bản thân, tự đồng nhất với chính mình và chủ động làm mọi thứ bằng năng lượng và sức mạnh của chính mình để biến mọi việc trở nên tốt đẹp nhất. Đầy lo âu và sợ hãi, con người không chủ động hành động hoặc khởi xướng để làm điều đúng đắn, mà lại hạ mình như một con chó trong lời cầu nguyện gửi đến một Thượng đế tưởng tượng, để cầu xin sự giúp đỡ mà hình tượng tưởng tượng đó không bao giờ có thể ban cho, dù là để tránh bị sét đánh, tránh bị lũ cuốn hay tránh bị mưa đá giết chết. | Gegensätzlich steht dazu die Dankbarkeit der Gläubigen, und zwar für die Verschönung des Übels, das nicht auf sie eingebrochen ist, weil sie sich gemäss ihrem Glauben demütig im Gebet an ihren Gott und in Verehrung seiner göttlichen Gewalt hündisch erniedrigt haben. Dies, anstatt auf sich selbst zu vertrauen, sich mit sich selbst zu identifizieren und eigens bewusst alles mit eigener Energie und Kraft zu tun, um alles zum Guten und Besten zu wenden. Voller Angst und Furcht greift der Mensch nicht selbst bewusst zur eigenen Tat und Initiative, um das Richtige zu tun, sondern erniedrigt sich hündisch-demütig im Gebet an einen imaginären Gott, um Hilfe zu erbetteln, die eine solche Phantasiegestalt niemals geben kann, weder um nicht von einem Blitz getötet zu werden, noch um nicht von Fluten verschlungen oder vom Hagel erschlagen zu werden. |
Ban đầu, các tôn giáo tự nhiên được hình thành trong con người thời kỳ đầu từ nỗi lo lắng, sợ hãi, kinh hoàng và sự không hiểu biết, vì họ coi mình là những kẻ phụ thuộc vào tự nhiên cũng như vào sự sống và cái chết. Họ tìm kiếm các lời giải thích, nhìn vào bóng tối, trải nghiệm những thị kiến, nhìn thấy hình dáng, gương mặt và nghe được những cái tên, v.v., mà họ chấp nhận tổng thể là sự thật, xem đó là một quyền năng cao hơn và thần thánh, và bắt đầu tin vào đó. Như vậy, những ý nghĩ và cảm xúc về sự phụ thuộc cũng như lo lắng và sợ hãi là những yếu tố cơ bản, từ đó hình thành nên các hình ảnh về quyền năng cao hơn, tức là một vị thần hoặc nữ thần, xung quanh đó các ý nghĩ và cảm xúc ngày càng xoay quanh, và cuối cùng, từ đó phát sinh ra đức tin. Và thực tế, cho đến ngày nay, từ nỗi lo lắng và sợ hãi, những hướng tôn giáo mới, các lời giải thích và các hình thức đức tin ảo tưởng cũng như các giáo phái vẫn tiếp tục xuất hiện, đặc biệt là trong quần chúng của cả một dân tộc, nơi mà những sự kiện và hiện tượng gây lo sợ, kinh hoàng, cũng như các tác động bình thường hoặc phi thường của tự nhiên được biến thành đối tượng của một niềm tin tôn giáo hoặc giáo phái ảo tưởng. | Ursprünglich entstanden bei den frühen Menschen Naturreligionen aus Angst, Furcht, Schrecken und Unverstehen, weil sie sich als Abhängige von der Natur sowie von Leben und Tod sahen. Sie suchten nach Erklärungen, suchten in der Dunkelheit, erlebten Visionen, sahen Gestalten, Gesichter und hörten Namen usw., was sie gesamthaft als wahr annahmen, als höhere Macht und Gottheit erachteten und daran zu glauben begannen. Also waren Gedanken und Gefühle der Abhängigkeit sowie der Angst und der Furcht die grundlegenden Faktoren, aus denen Bilder höherer Mächte resp. eines Gottes oder einer Göttin entstanden, um die sich die Gedanken und Gefühle immer mehr drehten und letzten Endes ein Glaube daraus entstand. Und tatsächlich ist es noch heute so, dass aus Angst und Furcht neue religiöse Richtungen, Erklärungen und Wahnglaubensformen sowie Sekten entstehen, und zwar in den Massen ganzer Völker, bei denen angst-, furcht- und schreckenerregende Ereignisse und Erscheinungen sowie normale oder ausserordentliche Wirkungen der Natur zum Gegenstand eines religiösen oder sektiererischen Wahnglaubens gemacht werden. |
Ngày nay, khoa học giúp giải thích thế giới, sự sống và vũ trụ dưới mọi yếu tố vật lý và xua tan bóng tối của sự không hiểu biết. Nhưng điều này không ngăn cản các tín đồ của tôn giáo và giáo phái tiếp tục ở lại trong bóng tối của sự không hiểu biết và đắm chìm trong những giáo lý sai lầm của tôn giáo và giáo phái. Thực ra, họ chỉ làm như vậy vì một mặt, đức tin của họ được truyền lại như một di sản xấu xa và hoạt động mạnh mẽ, mặt khác, họ vẫn bị mắc kẹt trong nỗi lo lắng và sợ hãi, mà họ không dám tự giải thoát vì sợ bị Thượng đế trừng phạt. | In der heutigen Zeit macht die Wissenschaft die Welt, das Leben und das Universum in allen physikalischen Faktoren erklärbar und vertreibt die Dunkelheit des Unwissens. Das aber hindert die Gläubigen von Religionen und Sekten nicht daran, weiterhin in der Dunkelheit des Unwissens zu verharren und den religiösen und sektiererischen Irrlehren zu frönen. Tatsächlich tun sie das aber nur, weil einerseits ihr Glaube als böses Erbgut in ihnen überliefert und machtvoll tätig ist, und andererseits sind sie weiterhin von Angst und Furcht befangen, wovon sie sich nicht zu befreien wagen, weil sie göttliche Strafe fürchten. |
Và sự trừng phạt của Thượng đế này, họ tin rằng, sẽ giáng xuống họ dưới dạng bệnh tật, dịch bệnh, thiếu thốn và khổ cực, như tai họa, sét đánh, lũ lụt, hạn hán, mưa đá, bão tố, nghèo đói hoặc ô nhục, v.v. | Und diese göttliche Strafe, so glauben sie, komme über sie als Krankheit, Seuche, Not und Elend, als Unglück, Blitzschlag, Sturmflut, Dürre, als Hagel, Ungewitter, Armut oder Schande usw. |
Con người không giống động vật hay sinh vật, vốn nhận ra khi mình sắp chết, vì con người đã trở nên lơ là và bất cẩn trong những điều này; trái lại với động vật và sinh vật, con người ý thức được rằng mình sẽ chết sớm hay muộn và không thể tránh khỏi cái chết. Tuy nhiên, nhiều người thường sợ cái chết vì không biết điều gì sẽ đến sau sự sống, trong cái chết. Con người cũng không biết điều gì đã xảy ra trước khi mình sinh ra và mục đích thực sự của cuộc sống là gì. Nếu không có câu trả lời cho những câu hỏi này, cuộc sống đối với con người vẫn vô nghĩa, có thể nói, chẳng khác gì một trò đùa ác ý trong thời gian vô tận. Đây cũng là một lý do khiến con người tìm kiếm một Thượng đế cho mình và trở thành kẻ tin mù quáng với hy vọng rằng Thượng đế sẽ sắp đặt mọi thứ, mang lại ý nghĩa thực sự cho mọi việc và có giải pháp cho tất cả. Vì lý do này, con người cũng tìm đến một tôn giáo hoặc giáo phái và từ đó tin rằng mình được chăm sóc tốt và đang làm điều đúng đắn. Tuy nhiên, đức tin tôn giáo hoặc giáo phái thực chất không gì khác ngoài sự tuyệt vọng về mục đích cuộc sống. Nếu người tín đồ biết được niềm vui và nỗi đau của mình sẽ dẫn đến đâu (vì trong lĩnh vực này, mọi thứ đều được Spirit Teaching công bố và giảng dạy chi tiết), thì người đó sẽ nhận ra mục tiêu rõ ràng cho những nỗ lực của mình và tìm thấy một lý do giải thích hợp lý và logic cho sự rối loạn của các mối quan tâm cũng như cho các ý nghĩ, cảm xúc, mong muốn, kỳ vọng, nhu cầu và hy vọng, v.v. của mình. Thực tế, khi đó họ sẽ không còn bám víu vào các giáo lý sai lầm của tôn giáo, giáo phái, các hệ tư tưởng và triết lý sai lầm, và sẽ không còn tin vào bất kỳ Thượng đế nào mà chỉ sống theo sự thật sáng tạo-tự nhiên, nhận ra bản thân là một quyền năng cao, và làm mọi thứ bằng chính năng lượng và sức mạnh của mình, đạt được và mang lại thành công tốt nhất. | Der Mensch ist kein Tier oder Getier, das merkt, wenn es ans Sterben geht, denn er ist in diesen Dingen unachtsam und nachlässig geworden, doch gegensätzlich zum Tier und Getier ist er sich bewusst, dass er früher oder später sterben wird und dem Tod nicht ausweichen kann. Doch vor dem Tod fürchtet sich so mancher, weil er nicht weiss, was nach dem Leben im Tode kommt. Auch weiss er nicht, was vor seinem Leben war und welchen Zweck dieses eigentlich hat. Ohne Antworten auf diese Fragen bleibt für den Menschen das Leben sinnlos, sozusagen nichts anderes als ein böser Witz in der Zeit der Ewigkeit. Auch das aber ist ein Grund dafür, dass sich der Mensch einen Gott sucht und sich ihm wahngläubig verschreibt, in der Hoffnung, dass er alles richte, allem einen wirklichen Sinn gebe und die Lösung für alle habe. Also wendet sich der Mensch auch aus diesem Grund einer Religion oder Sekte zu und damit dem Glauben, dass er damit gut aufgehoben sei und des Rechtens tue. Doch religiöser oder sektiererischer Glaube ist wahrheitlich nichts anderes als eine Verzweiflung am Lebenszweck. Wüsste der gläubige Mensch, wohin ihn seine Freuden und Leiden führen (wie diesbezüglich alles ausführlich durch die Geisteslehre kundgetan und gelehrt wird), dann würde er ein sichtbares Ziel seiner Anstrengungen erkennen und einen plausiblen und logischen Erklärungsgrund für sein wirres Durcheinander seiner Interessen sowie für seine Gedanken, Gefühle, Wünsche, Erwartungen, Bedürfnisse und Hoffnungen usw. finden. Tatsächlich würde er dann auch keinen Irrlehren der Religionen, Sekten, falschen Ideologien und Philosophien anhängen und an keinen Gott glauben, sondern nur noch der schöpferisch-natürlichen Wahrheit leben, sich selbst als hohe Macht erkennen und alles durch eigene Energie und Kraft tun, bewerkstelligen und zum besten Erfolg bringen. |
Người bị hủy hoại bởi niềm tin tôn giáo hoặc giáo phái không dựa vào bản thân, không dựa vào năng lượng và sức mạnh của mình, cũng không dựa vào khả năng của mình; thay vào đó, họ hèn nhát tìm kiếm tất cả những giá trị này nơi một Thượng đế và trong đức tin của mình vì họ không có chút tự tin nào vào bản thân và vào khả năng cũng như tiềm năng của mình, bởi vì họ chỉ kỳ vọng những điều đó từ Thượng đế của mình. Người tín đồ tìm kiếm sự giúp đỡ từ Thượng đế, các thiên thần hoặc các vị thánh để thoát khỏi sự tuyệt vọng của mình. Đối với người phụ thuộc vào đức tin, Thượng đế trở thành nguyên lý tổ chức vĩ đại cho mọi sai lầm và rối loạn của con người, vì với tư cách là tín đồ, họ không thể tự tạo ra và duy trì trật tự; do đó, họ cũng biến Thượng đế thành lý do cho sự sống, thế giới, vũ trụ và mọi sự kiện, cũng như mục tiêu của mọi nỗ lực và là người sáng lập ra sự sống và ý nghĩa của nó. | Der einem religiösen oder sektiererischen Glauben verfallene Mensch verlässt sich nicht auf sich selbst, nicht auf seine eigene Energie und Kraft und nicht auf sein eigenes Können, sondern er sucht feige all diese Werte bei einem Gott und in seinem Glauben, weil er keinerlei Vertrauen zu sich selbst und zu seinen Fähigkeiten und Möglichkeiten hat, weil er sie nur seinem Gott zumutet. Der Gläubige sucht bei Gott, Engeln oder Heiligen Hilfe aus seiner Verzweiflung. Für den Glaubensabhängigen wird Gott zum grossen Ordnungsprinzip für alle menschlichen Irrungen und Wirrnisse, weil er als Gläubiger die Ordnung nicht selbst erstellen und nicht aufrechterhalten kann, wodurch er Gott auch zum Erklärungsgrund für das Leben, die Welt, das Universum und alle Geschehen sowie zum Ziel aller Anstrengungen und zum Stifter des Lebens und dessen Sinn macht. |
Người tin tưởng sống trong ảo tưởng rằng Thượng Đế sẽ ngăn chặn mọi điều xấu, mọi điều ác và mọi bất công nếu chỉ cần tin vào Ngài và cầu nguyện tha thiết với Ngài. Và Thượng Đế, theo như người tin tưởng nghĩ, sẽ ngăn cản việc họ không có sự an toàn trong cuộc sống và không cảm thấy mình như một chiếc lông vũ trôi dạt trong gió. Và thực tế, người tin tưởng luôn muốn có một lý do cho những gì xảy đến với mình. Nhưng khi không thể nhận ra lý do, người tin tưởng bám víu vào niềm tin vào Thượng Đế và vào sự tưởng tượng rằng đó là sự sắp đặt của Tạo hóa. Khi không thể thấy lý do cho một điều gì đó, không chỉ cá nhân người tin tưởng mà thường là tất cả những người tin vào Thượng Đế đều bám vào niềm tin rằng những sự kiện không thể hiểu nổi đó là công việc và ý chí của Thượng Đế, như một Đấng vận hành thế giới và vận mệnh, mà họ phải đơn giản chấp nhận. Và họ nghĩ rằng cuộc sống của họ tuân theo một số phận được Tạo hóa cân nhắc kỹ lưỡng và ban tặng, mà họ phải chịu đựng, bởi vì ý tưởng về một trật tự, mục đích và định mệnh cao hơn khiến họ cảm thấy yên lòng. Bằng cách này, việc tập trung cuộc sống vào một Thượng Đế mang lại ý nghĩa cho người tin tưởng, dù điều này cực kỳ lừa dối. Nhưng thông qua ý nghĩa lừa dối này, người tin tưởng được trao cho một ý nghĩa sai lầm và một cấu trúc rối loạn cho cuộc sống. Người tin tưởng tự lừa dối mình và nghĩ rằng cuộc sống của mình có sự trường tồn vượt qua cái chết; do đó, họ tin rằng những lời hứa thiên đường sẽ dành cho họ, và chính điều này tạo ra một lý do khác cho đức tin khiêm nhường, bởi vì các điều răn được cho là của Tạo hóa và các quy tắc sống tôn giáo dần dần phá hủy mọi lý trí. Chỉ còn lại một hình thức quan hệ giữa Thượng Đế tưởng tượng và người tin tưởng. Đồng thời, điều này tạo ra một hệ thống đạo đức và luân lý tôn giáo nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau, trong đó các hình phạt do Thượng Đế ra lệnh – kể cả giết người – vẫn được coi là đúng về mặt đạo đức và luân lý. Thật không may, con người trên Trái Đất về mặt đức tin, Thượng Đế, tôn giáo và các giáo phái đều không có sự hiểu biết và lý trí, cũng như suy nghĩ phi logic và cố chấp; do đó, họ không muốn tự giải thoát khỏi các cấu trúc niềm tin tôn giáo và giáo phái, trong đó họ đã mắc kẹt từ thời xa xưa. | Der Gläubige lebt im Wahn, dass Gott alles Böse, alles Übel und jede Art von Unbill verhindere, wenn nur an ihn geglaubt und zu ihm flehentlich gebetet werde. Und Gott, so glaubt der Gläubige, verhindere, dass er im Leben keine Sicherheit habe und sich nicht wie eine treibende Feder im Wind fühle. Und tatsächlich ist es so, dass der gläubige Mensch immer einen Grund dafür haben will, was ihm zustösst. Wo er aber keinen Grund erkennen kann, hält sich der Gläubige an seinen Glauben an Gott und an die Einbildung, dass es göttliche Fügung sei. Wo für etwas kein Grund zu erkennen ist, hält sich nicht nur der einzelne Gläubige, sondern halten sich in der Regel alle Gottgläubigen an den Glauben, dass die entsprechenden unverständlichen Begebenheiten das Werk und der Wille Gottes als Welten- und Schicksalslenker seien, die einfach hingenommen werden müssten. Und sie meinen, ihr Leben folge einem wohlüberlegten und durch Gott bestimmtes Geschick, dem sie ausgeliefert seien, weil ihre Vorstellung einer höheren Ordnung, Absicht und Bestimmung sie beruhigt. Auf diese Weise das Leben auf einen Gott auszurichten, gibt dem Gläubigen einen Sinn, auch wenn dieser äusserst trügerisch ist. Durch diesen trügerischen Sinn bekommt das Leben des gläubigen Menschen aber eine falsche Bedeutung und wirre Struktur. Der Gläubige trügt sich selbst und meint, dass sein Leben über den Tod hinaus Bestand habe, so er glaubt, es würden sich für ihn himmlische Verheissungen entwickeln, und genau dadurch entsteht ein weiterer Grund zum demütigen Glauben, weil nämlich angebliche göttliche Gebote und religiöse irdische Lebensregeln allmählich alle Vernunft zerstören. Es erfolgt nur noch eine Gestaltung einer Beziehung zwischen dem imaginären Gott und dem gläubigen Menschen. Gleichzeitig erwächst daraus ein System religiöser Ethik und Moral, das die Verhältnisse unter den Menschen regeln soll, wobei auch gottbefohlene Strafen – bis hin zum Mord – als ethisch und moralisch als richtig behauptet werden. Der Mensch der Erde ist leider in bezug auf Glaube, Gott, Religionen und Sekten verstandes- und vernunftlos sowie unlogisch denkend und zudem eigensinnig, folglich er sich von den religiösen und sektiererischen Glaubensgebilden nicht lösen will, in denen er sich schon seit alters her verfangen hat. |
SSSC, 24. Januar 2009, 23.23 h | |
Billy |